Chủ Nhật, 4 tháng 10, 2015

Về Hà Tây đi em !!!

Thứ Sáu, 13 tháng 2, 2015

Vài điều thú vị về CAFE: 

- Không giống như các loại đồ uống khác, chức năng chính của cà phê không phải là giải khát, mặc dù người dân Mỹ uống nó như thức uống giải khát. Nhiều người uống nó với mục đích tạo cảm giác hưng phấn. Theo một nghiên cứu được công bố vào tháng 8 năm 2005 của nhà hoá học Mỹ Joe Vinson thuộc Đại học Scranton thì cà phê là một nguồn quan trọng cung cấp các chất chống ôxi hóa (antioxidant) cho cơ thể, vai trò mà trước đây người ta chỉ thấy ở hoa quả và rau xanh. Những chất này cũng gián tiếp làm giảm nguy cơ bị ung thư ở người.



- Ban đầu cà phê rất đắt, vì thế chỉ có tầng lớp quý tộc hoặc những người giàu có mới được thưởng thức thứ đồ uống thơm ngon này.

- Honoré de Balzac thường uống loại cà phê rất đặc để có thể thức làm việc. Ông thường làm việc tới 12 tiếng một ngày. Ludwig van Beethoven có thói quen lựa chọn đủ 60 hạt cà phê để pha một tách Mokka. Johann Wolfgang von Goethe thì có ý tưởng chưng cất cà phê. Về sau nhà hoá học Friedlieb Ferdinand Runge đã chuyển hoá ý tưởng này thành hiện thực, nhờ vậy mà ông tìm ra caffein.

- Vào những thời kỳ khủng hoảng, người nghèo không có đủ tiền mua cà phê, họ phải uống các loại đồ uống giả cà phê để thay thế. Ngày nay, ở một số nước người ta coi việc uống cà phê như một thức uống phổ thông (cà phê thường có hàm lượng Cafein thấp) và ăn kèm bánh trái hoặc hoa quả.

- Người Phần Lan uống nhiều cà phê nhất thế giới. Năm 1998 mỗi người Phần Lan tiêu thụ khoảng 11,3 kg cà phê, tương đương với 1737 tách mỗi năm hay 5 tách mỗi ngày. Nước tiêu thụ cà phê lớn nhất thế giới là Hoa Kỳ. Năm 1998 dân nước này sử dụng 1.148.000 tấn cà phê (so với 58.000 tấn của Phần Lan). Trung bình mỗi người Mỹ tiêu thụ 4,8 kg hay 646 tách một năm (1,8 tách một ngày).

- Mỗi người Đức uống trung bình 4 tách cà phê một ngày, tương đương với 160 lít hay 6,7 kg một năm. Vì vậy cà phê là thức uống được ưa thích nhất của người Đức đứng trước bia . Ở Việt Nam lượng cà phê tiêu thụ nội địa còn rất khiêm tốn. Mỗi người Việt Nam một năm chỉ dùng hết khoảng nửa kg cà phê, bằng một phần mười các nước châu Âu.

- Do chứa hàm lượng chất dinh dưỡng cao nên người ta có thể sử dụng bã cà phê như một chất bón cây rất hữu hiệu. Trong thành phần của nó chứa nhiều canxi, phốt pho, nitơ cũng như các chất khoáng khác giúp ích cho sự phát triển của cây. Bã cà phê còn là một chất rửa tay tuyệt vời. Ngoài ra, do bao gồm nhiều hạt nhỏ và không bị bám dính nên người ta thường sử dụng bã cà phê để làm sạch những vật dụng mà tay không thò vào được như chai lọ hay các ấm đun nước. Cuối cùng, bã cà phê là thức ăn yêu thích của nhiều loài giun, vốn là người bạn gần gũi của cây cối.

Chủ Nhật, 5 tháng 10, 2014

VỊ NGỌT CỦA CAFE MUỐI


"Hẳn câu chuyện này đã quen thuộc với rất nhiều bạn rồi, nhưng lần nào đọc lại, đặc biệt là nghe lại bản radio đều thấy rất nhẹ nhàng và xúc động. Đọc lại để tự nhắc nhớ: hãy yêu nhau mỗi ngày, như cái ngày bắt đầu tình yêu ấy. Tất nhiên rằng, cuộc sống là 1 chuỗi những ngày dài lộn xộn, nhưng tình yêu chỉ cần 1 cái góc bé xíu, yên lặng, đổ chút xi măng để dính chặt nó vô đó là đc"

Anh gặp cô trong một bữa tiệc. Cô nổi bật giữa đám đông. Rất nhiều ánh mắt trìu mến và ngưỡng mộ hướng về phía cô, rất nhiều lời có cánh vây quanh cô. Trong khi, anh chỉ là một người đàn ông bình thường...

Cuối bữa tiệc, anh ngỏ ý mời cô đi uống cà phê. Cô rất ngạc nhiên, nhưng trước vẻ lịch thiệp của anh, cô nhận lời.

Họ ngồi trong một quán cà phê nhỏ. Anh, dường như quá căng thẳng, đến chẳng nói được điều gì. Còn cô, cảm thấy không được thoải mái, đang nghĩ sẽ đề nghị anh đưa về.

Bất chợt anh gọi người phục vụ: "Làm ơn cho tôi chút muối, tôi muốn dùng cà phê với muối!". Lời đề nghị của anh làm mọi người xung quanh chú ý, mọi ánh mắt đổ dồn về phía anh, ngạc nhiên và giễu cợt. Gương mặt anh chuyển sang màu đỏ. Tuy thế, khi người phục vụ mang muối tới, anh vẫn dùng muỗng để lấy một chút muối bỏ vào ly cà phê của mình, và uống.

Cô tò mò hỏi anh: "Vì sao anh lại có sở thích này?". Anh giải thích: "Khi còn nhỏ, tôi sống gần biển. Tôi rất thích chơi ở biển. Tôi có thể cảm thấy vị của biển - mặn và đắng, giống như vị cà phê có muối. Giờ đây, mỗi lần uống cà phê, tôi đều bỏ muối. Tôi thường nhớ về tuổi thơ của mình, nhớ về quê hương. Tôi rất nhớ quê hương, nhớ cha mẹ tôi, họ vẫn còn sống ở nơi đó".

Cô cảm nhận rõ sự xúc động từ sâu trong trái tim anh. Một người đàn ông khi phải thốt ra thành lời tình yêu đối với quê hương, chắc phải là một người rất yêu thương và có trách nhiệm với gia đình. Rồi cô cũng bắt đầu nói, về quê nhà xa xôi của cô, về tuổi thơ, về gia đình của cô.

Đó thực sự là một cuộc trò chuyện xúc động, một bước khởi đầu tốt đẹp trong mối quan hệ giữa họ. Và họ tiếp tục hẹn hò. Cô tìm thấy ở anh những gì mình từng mơ ước ở một người đàn ông - một người có đức tính khoan dung, chân tình và chu đáo. Rồi thì, như một câu chuyện tình đẹp: hoàng tử đã cưới người đẹp, họ sống với nhau một cuộc sống hạnh phúc. Cám ơn ly cà phê mặn. Và, mỗi lần pha cà phê cho anh, cô thường bỏ vào chút muối, đúng như anh đã thích.

Sau 40 năm chung sống, anh đã ra đi, để lại cho cô một bức thư:

"Em yêu, hãy tha thứ cho anh, tha lỗi cho sự dối trá của anh. Đó là lời nói dối duy nhất mà anh từng nói với em, rằng anh thích cà phê với muối.

Hãy nhớ lại cái lần đầu tiên chúng ta cùng nhau đi uống, em đã rất ngạc nhiên khi thấy anh đòi bỏ muối vào cà phê. Sự thật là anh muốn yêu cầu một chút đường, nhưng có lẽ do quá bối rối, lại nói thành muối. Ngay lúc đó, anh không thể thay đổi. Anh không bao giờ nghĩ điều đó lại chính là tác nhân đầu tiên làm nên mối gắn kết giữa chúng ta.

Nhiều lần, anh đã cố gắng nhưng vẫn không nói ra được với em, nhưng anh quá sợ, vì anh đã hứa không bao giờ nói dối em. Giờ đây anh sắp lìa bỏ cuộc sống rồi, anh không sợ điều gì nữa, và anh phải nói với em một sự thật:

Cà phê pha với muối không phải là thứ đồ uống anh thích từ khi còn nhỏ như đã từng nói với em, lần đầu tiên dùng nó, anh đã rất khó chịu. Nhưng, từ khi có em, anh đã dùng cà phê mặn trong suốt những tháng ngày còn lại của cuộc đời mình. Và, anh chưa bao giờ cảm thấy hối tiếc về những gì anh đã làm để có được em trong cuộc đời này, kể cả việc uống cà phê pha với muối!".

Nước mắt của cô đã làm nhòe hết bức thư.

Sau này, có người đã hỏi cô: "Vị của cà phê với muối như thế nào?" - "Ngọt" - cô không ngần ngại đáp

Thứ Bảy, 4 tháng 10, 2014

Câu chuyện café - Phiêu lưu (part 2)

Không phải tự nhiên mà Cafe trở thành thứ thức uống phổ biến, say mê và kì lạ đến vậy bên cạnh những khuyến cáo về tác hại cho sức khỏe (sẽ đc cập nhật sau). Không phải tự nhiên mà từ những thế kỉ 14, 15 người ta đã tranh giành nhau, ích kỷ với nhau để bảo tồn thứ chất kích thích này cho riêng đất nước mình. Chính nguồn gốc và câu chuyện về những hạt Cafe đã đầy đủ sự li kỳ hấp dẫn lắm rồi. Thật sự là thiếu sót và đáng tiếc nếu nó mãi chỉ là thứ thức uống độc quyền của xứ Ả Rập xa xôi.

Sau khi những người buôn nô lệ đã mang cà phê từ Ethiopia

sang xứ Ả Rập thì nó đã trở thành một thức uống truyền thống của người Ả Rập và đây chính là nơi trồng cà phê độc quyền với trung tâm giao dịch cà phê là thành phố cảng Mocha, hay còn được gọi là Mokka, tức là thành phố Al Mukha thuộc Yemen ngày nay. Người Ả Rập rất tự hào về phát minh ra loại thức uống này và giữ bí mật để bảo tồn độc quyền về một loại sản phẩm. Họ đưa ra những chế tài rất chặt chẽ trong việc sản xuất và xuất khẩu cà phê như: Chỉ mang hạt ra khỏi xứ sau khi đã rang chín,người ngoại quốc cũng bị cấm không cho bén mảng đến các đồn điền cà phê. Thế nhưng dù nghiêm ngặt đến mức nào thì cũng có người vượt qua được, những khách hành hương được thưởng thức nước cà phê đã lén lút mang hạt giống về trồng, chẳng bao lâu khắp khu vực Trung Đông đều có trồng và truyền đi mỗi lúc một xa hơn.

Ban đầu, chính quyền Yemen tích cực khuyến khích uống cà phê. Quán cà phê đầu tiên mở ở Mecca và nhanh chóng lan rộng khắp cộng đồng người Ả Rập, quán cà phê trở thành nơi giải trí như đánh cờ, nhảy múa, ca hát,…nơi tổ chức các hoạt động xã hội, thương thảo kinh doanh. Quán cà phê nhanh chóng trở thành trung tâm hoạt động chính trị, và bị chính quyền đã ngăn cấm nghiêm ngặt. Trải qua vài thập kỷ, cà phê và các quán cà phê đã bị cấm sử dụng nhiều lần nhưng vẫn tồn tại, cuối cùng chính quyền đành chấp nhận nhưng đánh thuế lên cả hai.

Sau nhiều lần thất bại, người Hà Lan là dân tộc đầu tiên ở Châu Âu lấy được hạt giống cây này mang về thử trồng ở đảo Java ( khi đó là thuộc địa của họ).

Năm 1723, một sĩ quan hải quân Pháp tên De Clieu được về nghỉ phép ở Paris, đã quyết định đem cây này về xứ Martinique nơi anh trú đóng. Sau nhiều hoạn nạn De Clieu cũng trồng được cây cà phê ở một nơi kín đáo với 3 thủy thủ canh gác ngày đêm. Hơn 50 năm sau, Pháp trở thành đối thủ cạnh tranh gay gắt với Hà Lan, bất đồng xảy ra không thể giải quyết họ nhờ đến chính quyền Brasil đứng ra dàn xếp. Đây là cơ hội, với những quỷ kế, Brasil đã mang được hạt giống về nước và đây là khởi đầu cho giống cà phê trồng tại Brasil, biến các quốc gia Trung, Nam Mỹ trở thành những đế quốc cà phê lớn bậc nhất thế giới.

Trong khi đó, vào năm 1660 cà phê được người Hà Lan truyền vào Bắc Mỹ ở vùng Amsterdam, Bốn năm sau, người Anh chiếm vùng này và đặt tên là New York, cà phê trở thành một thức uống quen thuộc chỉ dành cho giới thượng lưu trong khi trà là thức uống phổ thông trong mọi tầng lớp. Thế nhưng đến năm 1773, khi Anh Hoàng George đánh thuế trà và người dân Mỹ nổi lên chống lại thì tình hình thay đổi. Người Mỹ giả dạng dân da đỏ tấn công những tàu chở trà đem đổ xuống biển. Biến cố lịch sử dưới tên Boston Tea Party đã làm cho người Mỹ nghiện uống cà phê và chẳng bao lâu thức uống này trở thành quốc ẩm.

                                                                                                   ST - (Còn nữa)

Thứ Hai, 29 tháng 9, 2014

Chuyện của hạt cafe



Những câu chuyện về cà phê thì rất nhiều, ly kỳ và đôi khi thêm chút phóng đại đến nỗi chẳng ai cần biết đến là thực hay hư. Chỉ biết rằng nó luôn đầy khoái cảm và thú vị như chính cái hậu vị để lại khi giọt cà phê tan vào trong từng tế bào cảm giác!

.
.
.
Chuyện kể rằng có anh chàng chăn dê tên Kaldi người xứ Abyssinia với đàn dê của anh ta. Lần nọ, đàn dê của anh đã ăn một loại quả cây lạ có màu đo đỏ rồi sau đó có những biểu hiện lạ thường. Kaldi phát hiện ra điều đó, anh liều ăn thử và thấy mình hưng phấn hẳn lên, ngờ rằng mình đã gặp một phép lạ bèn báo ngay cho vị quản nhiệm ở một tu viện gần đó. Nhà tu kia sợ rằng đây chính là một thứ trái cấm của quỷ dữ nên lập tức vứt vào lò lửa, thế nhưng khi những quả kia cháy xém tỏa ra một mùi thơm lừng, đến lúc này người tu sĩ kia mới tin rằng đó là một món quà của Thượng Đế ban tặng nên vội kêu thêm những tăng lữ khác đến tiếp tay. Họ đem rang lên, giã nhỏ rồi pha vào nước uống để mọi người cùng hưởng thiên ân.

Một câu chuyện về sự độc hại của cà phê, như câu chuyện ở đất nước Thụy Điển, quốc vương Gusitafu đệ tam muốn thử xem cà phê có độc hay không bèn ra quyết định bắt hai anh em tội phạm bị kết án tử hình đang giam trong ngục mỗi ngày phải được cho uống thứ nước làm từ quả ấy hai lần, thử xem họ chết ra sao? Đến lúc chết, vị hoàng đế này vẫn để lại di chỉ cho người kế vị là phải tiếp tục làm theo lệnh của ông ta, như một phép lạ, hai tử tù kia qua đời ở tuổi hơn 80! Và có lẽ đó là ghi nhận đầu tiên của loài người về tính dược lý của cà phê, …

Người ta tin rằng tỉnh Kaffa của Ethiopia chính là vùng đất khởi nguyên của cây cà phê. Từ thế kỉ thứ 9 người ta đã nói đến loại cây này ở đây. Vào thế kỉ thứ 14 những người buôn nô lệ đã mang cà phê từ Ethiopia sang vùng Ả Rập. Nhưng tới tận giữa thế kỉ thứ 15 người ta mới biết rang hạt cà phê lên và sử dụng nó làm đồ uống. Vùng Ả Rập chính là nơi trồng cà phê độc quyền. Trung tâm giao dịch cà phê là thành phố cảng Mocha, hay còn được gọi là Mokka, tức là thành phố Al Mukha thuộc Yemen ngày nay.

Cách thức pha chế cà phê truyền thống của người Ethiopia có lẽ là cách thức cổ xưa nhất. Hạt cà phê được cho vào một cái chảo sắt to và rang lên, sau đó được nghiền vụn ra hoặc cho vào cối giã. Chỗ hạt giã vụn đó được trộn với đường trong một cái bình gọi là jebena (một loại bình cổ thon có quai), nấu lên và đổ ra bát ... ( Còn tiếp)

                                                                                                  _Nguồn sưu tầm_